2/25/2014

Một số vấn đề liên quan đến bản quyền trong số hóa tài liệu




Công nghệ số ra đời thay đổi sâu sắc và toàn diện cơ sở thông tin của xã hội. Với các thiết bị công nghệ số, dữ liệu thông tin được tạo lập nhanh chóng, lưu trữ lâu dài, phổ biến rộng rãi và sử dụng thuận tiện. Ở nước ta, chương trình số hóa tài liệu cũng đang được Nhà nước và giới chuyên môn quan tâm. Để chương trình số hóa tài liệu tại các thư viện trường học có thể triển khai có hiệu quả trong thực tế, có rất nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó có các quy định pháp luật về bản quyền.
    1. Vấn đề bản quyền trong giai đoạn thu thập và phân loại tài liệu.

    Đối tượng bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan.
    Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ (Luật SHTT), đối tượng của quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và đối tượng của quyền liên quan bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm hình ghi, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mạng chương trình đã được mã hóa (Điều 3 Luật SHTT). Mà theo quy định tại Điều 4 luật SHTT “tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”. Như vậy chỉ khi tài liệu đầu vào của quá trình số hóa chứa đựng sản phẩm mang tính sáng tạo của con người và đã được định hình mới là đối tượng bảo hộ bản quyền.

Một số vấn đề về số hóa tài liệu




Đặt vấn đề: Hiện nay, trong xu thế phát triển để hội nhập, chúng ta đang phấn đấu chuyển dần từ thư viện truyền thống sang thư viện điện tử. Đây là một xu hướng tất yếu. Tuy nhiên, để xây dựng một thư viện điện tử theo đúng nghĩa cần có một số quan điểm thống nhất và lựa chọn những bước đi thích hợp, trong đó, cần tập trung quan tâm đến khâu số hóa tài liệu, bởi đây là khâu cơ bản nhất trong quá trình xây dựng một thư viện điện tử.
                                                    
    1. Một số khái niệm liên quan
    Số hoá tài liệu
    Thuật ngữ “số hoá” (tiếng Anh: Digitization) được sử dụng để chỉ quá trình chuyển đổi thông tin truyền thống sang thông tin số. Thông tin truyền thống bao gồm các dạng tài liệu, văn bản, tranh vẽ, bản đồ, băng hình, băng ghi âm… Kết quả của việc số hoá, tạo nên các tệp dữ liệu (văn bản, ảnh, bản đồ, âm thanh, đa phương tiện) được lưu trữ trên máy tính điện tử.
Bộ sưu tập số
Bộ sưu tập số bao gồm tập hợp các tài liệu được thu thập dưới nhiều dạng thức khác nhau gồm: văn bản, hình ảnh, các bản vẽ - thiết kế, âm thanh,…về một chủ đề xác định, được biểu diễn dưới dạng số có tổ chức theo một cấu trúc thống nhất để có thể truy cập, chia sẻ, khai thác trong môi trường điện tử.
Thư viện số
Thư viện số là tập hợp của các thiết bị và phần mềm để tổ chức, tạo lập, lưu trữ, khai thác, chia sẻ nguồn tài nguyên số hóa với sự hỗ trợ của các dịch vụ tự động thông qua công nghệ mạng.
Một trong những yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của các cơ quan thư viện là đảm bảo sự thống nhất các mặt hoạt động trên cơ sở công tác tiêu chuẩn hóa. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQG) lập Dự án và đề nghị với lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phép tiến hành việc xây dựng các bộ TCVN trong lĩnh vực thư viện. Đề nghị này đã được lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chấp nhận.
Trong hai năm (2012-2013), TVQG đã tập trung công sức, trí tuệ, tranh thủ sự giúp đỡ của nhiều tổ chức, cá nhân, tuân thủ các quy định trong Luật Tiêu chuẩn quốc gia và Quy chuẩn kỹ thuật đã biên soạn xong tiêu chuẩn quốc gia về thuật ngữ và định nghĩa sử dụng trong hoạt động thư viện. Ngày 31 tháng 12 năm 2013, Bộ Khoa học và Công nghệ đã công bố TCVN 10274:2013 "Hoạt động thư viện – Thuật ngữ và định nghĩa chung" (Theo QĐ số 4222/QĐ-KHCN ngày 31/12/2013).
TCVN 10274:2013 "Hoạt động thư viện – Thuật ngữ và định nghĩa chung" bao gồm 152 thuật ngữ và định nghĩa chung sử dụng trong lĩnh vực hoạt động thư viện.
 Cùng với việc xây dựng 109 thuật ngữ mới, tiêu chuẩn này còn viện dẫn 43 thuật ngữ chung về lĩnh vực thư viện hoặc liên quan đến hoạt động thư viện của TCVN 5453:2009 Thông tin và tư liệu - Từ vựng. Trong đó: Khái niệm chung và thuật ngữ liên quan, gồm 34 thuật ngữ và định nghĩa (viện dẫn 11 thuật ngữ); Các loại hình thư viện, gồm 32 thuật ngữ và định nghĩa (viện dẫn 15 thuật ngữ); Các nguồn lực thư viện, gồm 35 thuật ngữ và định nghĩa (viện dẫn 8 thuật ngữ); Tổ chức lao động và hoạt động nghiệp vụ thư viện, gồm 51 thuật ngữ và định nghĩa (viện dẫn 9 thuật ngữ).
Tiêu chuẩn TCVN 10274:2013 là tiêu chuẩn quốc gia đầu tiên chuyên về lĩnh vực thư viện, được phê duyệt xuất phát từ nhu cầu rất cấp thiết của thực tiễn xã hội nói chung và ngành khoa học thư viện nói riêng, nhằm từng bước chuẩn hóa mọi hoạt động của ngành trong xu hướng hội nhập hiện nay. Việc ra đời Tiêu chuẩn sẽ góp phần hoàn thiện lý luận về khoa học thư viện, thống nhất trong cách hiểu, định nghĩa nội hàm của từng khái niệm, đối tượng nghiên cứu; Giúp các nhà chuyên môn thống nhất thuật ngữ chung trong xử lý tài liệu, xây dựng các kho CSDL thư mục và toàn văn; Giúp người dùng tin/bạn đọc nâng cao kết quả/hiệu quả tìm tin, dễ dàng truy cập, tra cứu thông tin đầy đủ, không bị mất tin, nhiễu tin, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động nghiệp vụ thư viện.
Thư viện Quốc gia Việt Nam trân trọng thông báo tới các Thư viện, Trung tâm Thông tin - Thư viện, các trường đào tạo nghề thư viện trong cả nước.
Các đơn vị có nhu cầu sử dụng tiêu chuẩn quốc gia TCVN 10274:2013 "Hoạt động thư viện – Thuật ngữ và định nghĩa chung", xin liên hệ: Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, số 8 Hoàng Quốc Việt, Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội.

Lễ công bố và Khai mạc Khóa tập huấn Khung phân loại thập phân Dewey – Ấn bản 23 tiếng Việt.

Sáng 29/11/2013, tại Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQG) đã tổ chức Lễ công bố và Khai mạc Khóa tập huấn Khung phân loại thập phân Dewey – Ấn bản 23 tiếng Việt.
Tham dự Buổi lễ có đại diện lãnh đạo Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch: ông Phan Đình Tân - Phó Chánh Văn phòng Bộ, bà Nguyễn Thị Thanh Mai - Vụ trưởng Vụ Thư viện, bà Nguyễn Thị Bích Vân - Phó Vụ trưởng Vụ Thi đua Khen thưởng; đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ: TS. Tạ Bá Hưng - Thư ký Bộ trưởng, nguyên Cục trưởng Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, ông Đào Mạnh Thắng - Phó Cục trưởng Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia; ông Phạm Thế Khang - Chủ tịch Hội Thư viện Việt Nam; TS. Julianne Beall - Phó Tổng biên tập Khung phân loại thập phân Dewey, Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ; đại diện Quỹ Atlantic Philanthropies, đại học quốc tế RMIT; bà Phan Thị Kim Dung – Giám đốc TVQG, Chủ tịch Hội đồng tư vấn, chịu trách nhiệm xuất bản Ấn bản DDC23 tiếng Việt; lãnh đạo TVQG các thời kỳ; đại diện lãnh đạo các thư viện tỉnh, thành, trung tâm thông tin - thư viện trường đại học, thư viện chuyên ngành, đa ngành, một số cơ sở đào tạo nghề thư viện; cùng toàn thể các học viên tham dự khóa tập huấn trong cả nước.
Khung phân loại thập phân Dewey là một trong ba công cụ quan trọng mang tính quốc tế về truy cập và trao đổi thông tin trong các hoạt động thư viện và dịch vụ thông tin được hơn 200.000 thư viện tại 138 quốc gia đang sử dụng. Việc dịch và in Khung phân loại thập phân Dewey - Ấn bản 23 (DDC 23) xuất phát từ những lợi ích thiết thực trong công tác biên mục tài liệu, góp phần thống nhất, chuẩn hóa, trao đổi thông tin và hội nhập quốc tế của các thư viện ở Việt Nam, đồng thời dựa trên nhu cầu áp dụng DDC tại các thư viện.

Thư viện tiểu học hiện đại nhất TP HCM

Sáng 24/2, trường tiểu học Lạc Long Quân, quận 11, TP HCM đã đưa vào sử dụng thư viện được xem là hiện đại nhất TP HCM.

IMG-7100-JPG-2163-1393229156.jpg

An Nhơn (Đạ Tẻh): Trồng dưa hấu "hốt bạc" nhưng vẫn lo

Cập nhật lúc 14:09, Thứ Ba, 18/02/2014 (GMT+7)
Ông Lưu Văn Phượng - Phó Chủ tịch UBND xã An Nhơn (huyện Đạ Tẻh) cho biết: Thời điểm này, bà con nông dân xã An Nhơn đang rất phấn khởi vì vụ mùa dưa hấu Tết năm nay vừa được mùa, lại trúng giá. Trong số 30 hộ trồng dưa ở An Nhơn, chỉ tính riêng vụ Tết Nguyên đán Giáp Ngọ vừa rồi, tổng số tiền thu về trên 10 tỷ đồng.
 
Nông dân Lê Phú Nhơn ở thôn 6, xã An Nhơn, trồng 3 hecta dưa, với năng suất bình quân 4 - 5 tấn/ sào. Ở giá bán hiện tại 10.000 - 11.000 đồng/ 1 kg (loại dưa dài) và 5.000 - 6.000 đồng/ 1 kg (loại dưa tròn), sau khi trừ tất cả các khoản chi phí, gia đình ông Nhơn lãi hơn 700 triệu đồng. “Gia đình tôi năm nào cũng trồng dưa hấu vụ Tết, nhưng chưa có năm nào trúng mùa, được giá như năm nay!” - Ông Lê Phú Nhơn vui mừng. Cùng niềm vui dưa hấu được mùa, trúng giá như gia đình ông Nhơn, anh Đinh Văn Thà, nông dân ở thôn 1, trồng 4 sào dưa hấu, sau khoảng 2 tháng rưỡi, dưa bắt đầu cho thu hoạch. Với mức giá tiêu thụ ổn định như hiện nay, 4 sào dưa hấu đã mang về cho gia đình anh hơn 100 triệu đồng.

Xuân Thọ "cán đích" nông thôn mới

Cập nhật lúc 14:41, Chủ Nhật, 23/02/2014 (GMT+7)
Đến cuối năm 2013, Xuân Thọ đã cơ bản đạt 19/19 tiêu chí nông thôn mới, là một trong những xã đi đầu của tỉnh trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao và huy động sức dân xây dựng nông thôn mới.
 
Bộ mặt nông thôn xã Xuân Thọ ngày càng khang trang
Bộ mặt nông thôn xã Xuân Thọ ngày càng khang trang

Rau Đà Lạt bán chạy ở Big C Đà Lạt

Cập nhật lúc 16:14, Thứ Hai, 17/02/2014 (GMT+7)
(LĐ online) - Khai trương từ 20/8/2013 đến nay Big C Đà Lạt đã khẳng định được vị thế là trung tâm mua sắm cho mọi giới tại Đà Lạt với tổng thu các mặt hàng đạt 1 tỷ đồng/ngày, trong đó các mặt hàng rau, củ Đà Lạt được tiêu thụ tốt mỗi ngày bán được 80 triệu đồng. Ông Vũ Văn Dũng - Giám đốc Big C Đà Lạt bất ngờ là: “Lúc đầu mở siêu thị, tôi không nghĩ có thể bán được mặt hàng rau địa phương nhưng Big C Đà Lạt đã bán được rau Đà Lạt!”.  
 
Trung bình mỗi ngày siêu thị Big C nhập vào 1-1,5 tấn rau Đà Lạt, trong dịp Tết lượng rau tăng 30%, gồm các loại rau xà lách, cà rốt, cà chua, dưa leo, bắp cải, rau gia vị… được bảo quản trên dây chuyền lạnh. Nguồn rau do siêu thị ký hợp đồng tại các nông hộ ở Đà Lạt, Đức Trọng, Đơn Dương nên giá cả tốt, chất lượng sản phẩm đảm bảo thông qua bộ phận kiểm nhận lựa chọn theo quy chuẩn của Big C, lấy mẫu phân tích để đảm bảo rau an toàn. 
 
Khách hàng thích mua rau ở siêu thị vì sự tiện lợi, thoải mái
Khách hàng thích mua rau ở siêu thị vì sự tiện lợi, thoải mái

Hai "mảng màu" rau xuân Đà Lạt

Cập nhật lúc 14:18, Thứ Năm, 20/02/2014 (GMT+7)
Rau xanh Đà Lạt thu hoạch trước và sau Tết Giáp Ngọ khoảng 20 ngày, phần lớn đều giảm giá liên tục; chỉ tăng giá một vài loại rau sản lượng không đáng kể. Hai “mảng màu” rau xuân Đà Lạt đang đặt ra việc thay đổi “nông lịch” gieo trồng sao cho phù hợp hơn với thị trường. 
 
2.000m2 vườn ớt ngọt đầu xuân ở Đà Lạt thu bán 50 triệu đồng/tuần
2.000m2 vườn ớt ngọt đầu xuân ở Đà Lạt thu bán 50 triệu đồng/tuần

Sản xuất nhang sạch từ lá thông

Lâm Đồng là một trong những địa phương có diện tích rừng lớn của cả nước và trong tổng diện tích 579.669ha rừng của tỉnh hiện nay có gần 133.000ha rừng thông tự nhiên. Điều tra của ngành lâm nghiệp thì mỗi năm 1ha rừng thông tự nhiên đã trả lại cho đất khoảng 3,9 tấn lá và cành nhánh khô rụng và đây là những vật liệu rất dễ gây cháy rừng vào mùa khô (bình quân mỗi năm ngân sách nhà nước phải chi trên dưới 5 tỷ đồng để các địa phương và các chủ rừng thực hiện các biện pháp phòng chống cháy rừng, trong đó có việc xử lý lá thông bằng phương pháp đốt trước). Để hạn chế tình trạng cháy rừng, tận thu nguồn tài nguyên và tăng thu nhập cho người bảo vệ rừng, một số cán bộ lâm nghiệp trong và ngoài tỉnh đã tiến hành nghiên cứu sử dụng lá thông khô dưới tán rừng để sản xuất nhang (hương) sạch.
 
Rừng thông hồ Tuyền Lâm – Đà Lạt. Ảnh: Thanh Toàn

Triển vọng bò sữa Lâm Hà

Thời gian gần đây phong trào chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi đang phát triển mạnh ở Lâm Hà. Bên cạnh chuyển đổi từ cây công nghiệp dài ngày sang rau, hoa công nghệ cao thì trong lĩnh vực chăn nuôi, con bò sữa đang được người dân nơi đây quan tâm và mở ra triển vọng mới cho ngành nông nghiệp địa phương.
 
Người dân Lâm Hà lâu nay vẫn gắn bó với cây cà phê truyền thống. Nhưng người làm cà phê vẫn bấp bênh theo mùa vụ, năm được năm mất và mỗi năm chỉ cho thu hoạch một lần nên bây giờ chăn nuôi bò sữa là cơ hội để họ nâng cao thu nhập, ổn định đời sống. Hiện nay, với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp và lợi thế về diện tích trồng cỏ nên ngành nông nghiệp Lâm Hà đang khuyến khích, hỗ trợ người nông dân phát triển chăn nuôi bò sữa. 
 
Năm 2013, UBND huyện Lâm Hà đã phê duyệt kế hoạch phát triển đàn bò sữa với quy mô ban đầu là 100 con/50 hộ dân và hỗ trợ mỗi hộ nuôi bò 2 triệu đồng. Ngoài ra, Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Phòng Tài chính - Kế hoạch Lâm Hà phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn rà soát, lập danh sách, thẩm định để cho các hộ dân có nhu cầu nuôi bò sữa vay vốn với lãi suất ưu đãi (100%/năm). Hiện nay, tổng đàn bò sữa trên địa bàn Lâm Hà là hơn 60 con, chủ yếu tập trung ở khu vực Nam Ban. Ngoài những hộ nằm trong diện được Nhà nước hỗ trợ nuôi bò thì nhiều người dân địa phương cũng đã tự túc đầu tư vốn để phát triển chăn nuôi bò sữa. Theo kế hoạch đề ra, Lâm Hà phấn đấu đến năm 2015 trên địa bàn có khoảng 500 con bò sữa và đến năm 2020 có khoảng 1.000 con trở lên. 

Đà Lạt mùa Mai Anh Đào

“Ai lên xứ hoa đào dừng chân bên hồ nghe chiều rơi/ Nghe hơi giá len vào hồn người chiều xuân mây êm trôi...”. Lời bài hát ấy, cứ ngân nga trong tôi mỗi dịp Mai Anh Đào nở.Năm nay, rét đậm và kéo dài nên Mai Anh Đào nở rộ đúng tết Nguyên đán. Cả Đà Lạt rực hồng, như “Nàng Sơn cước” lộng lẫy trong váy áo hồng, trẻ đẹp và quyến rũ. 
 
Bên hồ Xuân Hương
Bên hồ Xuân Hương

Đà Lạt thu nhỏ trong đường hầm điêu khắc

(LĐ online) - Sau thành công từ ngôi nhà bằng đất đỏ độc đáo, anh Trịnh Bá Dũng - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Đà Lạt Star tiếp tục nung nấu ý tưởng hình thành thêm một công trình kiến trúc cho Đà Lạt vẫn từ nguyên liệu là đất mẹ hiền hòa của xứ sở này. Từ đầu năm 2013, giữa núi rừng Tuyền Lâm hơn 100 bàn tay của họa sĩ, thợ điêu khắc và cả của thợ xây dựng đã và đang làm nên những công trình điêu khắc trên đất độc đáo.
 
Từ trên cao nhìn xuống
Từ trên cao nhìn xuống

Di sản tư liệu thế giới trong lòng thành phố ngàn hoa

Ngày 27/12/2013, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV tại Đà Lạt đã tổ chức trưng bày tài liệu lưu trữ là mộc bản triều Nguyễn. Đây là di sản tư liệu đã được UNESSCO công nhận là di sản tư liệu của thế giới. 
 
Hơn 30 ngàn tấm mộc bản của triều Nguyễn hiện đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV Đà Lạt, nơi mà trước đây gia đình nhà họ Ngô, là Ngô Đình Nhu - Trần Lệ Xuân sử dụng. Khối ván in mộc bản này đã được chuyển lên Đà Lạt năm 1960, cùng với rất nhiều tài liệu châu bản và các cổ thư có giá trị khác.  Thành phố ngàn hoa thật may mắn khi đang lưu giữ một báu vật đã có vài trăm năm tuổi, đó là kho thư tịch văn hiến của nhiều triều đại. Tự hào, vinh dự nhưng mang nặng trọng trách, cần phải bảo tồn thế nào để kho văn hiến ấy sẽ được mọi người dân Việt Nam cũng như các du khách nước ngoài biết đến.
Lẩn khuất đâu đó trong dãy Lang Biang huyền thoại là những đàn ngựa nhà được thả hoang như ngựa rừng.
 Của để dành 
 Với Ju Bên, 45 tuổi, thôn Đăng Gia, thị trấn Lạc Dương (huyện Lạc Dương), ngựa là một phần đời của ông. Ngay từ nhỏ, ông đã biết đến ngựa. Tuổi thơ của ông cũng như bao cậu bé trong buôn người Lạch dưới chân núi Langbiang đều gắn chặt với ngựa. Hầu như nhà nào ở đây cũng nuôi ngựa, nhà nhiều lên đến vài chục con. Ngựa nuôi cứ việc thả vào rừng, như trả chúng về với thiên nhiên, tự tìm thức ăn tại các bãi cỏ trên sườn núi, tự sinh sản, khi cần mới vào lùa đàn về. Ngựa ở ngoài trời là chủ yếu nên chuồng ngựa tại các nhà dân nơi đây cho đến bây giờ vẫn khá đơn sơ, chỉ vài hàng cọc gỗ đóng xuống, buộc các thanh gỗ chắn ngang đủ để quây đàn ngựa lại. Ju Bên tập cưỡi ngựa từ nhỏ. Ngày còn nhỏ, Ju Bên thường cùng cha và anh mình vào rừng kiểm tra đàn ngựa nhà đang lang thang ở đâu đó, rồi cùng lùa ngựa về nhà khi có việc. Ông lân la với đàn ngựa, biết rõ tính nết từng con, biết con nào chạy nhanh, con nào có sức bền, con nào thường hục hặc với đàn, con nào dễ dạy...

Tiềm năng du lịch văn hóa dân tộc bản địa Đơn Dương

 
Một trong những mục tiêu trong chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020 của huyện Đơn Dương được xác định là: “Phát triển du lịch đi đôi với việc bảo tồn, phát huy các giá trị bản sắc văn hóa; nâng cấp cảnh quan thiên nhiên, môi trường du lịch; nâng cao trình độ dân trí; nâng cao vị thế du lịch Đơn Dương - Lâm Đồng đối với cả nước cũng như quốc tế; thúc đẩy tiêu dùng, xuất khẩu tại chỗ và phát triển nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ; tạo việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.
 
Nghệ nhân Ma Wơng làm gốm
Nghệ nhân Ma Wơng làm gốm
 
Trong các giải pháp thực hiện, các nhà hoạch định chiến lược phát triển du lịch huyện Đơn Dương cũng chỉ rõ: “Xây dựng các chương trình khai thác văn hóa nghệ thuật cồng chiêng, dân ca, dân vũ, nhạc cụ dân tộc… để phục vụ và thu hút du khách”. Dẫn ra những điều này để thấy rằng, trong chiến lược phát triển du lịch địa phương, các nhà hoạch định ở Đơn Dương và ngành du lịch tỉnh Lâm Đồng đã đặc biệt chú trọng đến yếu tố văn hóa của các tộc người bản địa Nam Tây Nguyên nói chung và Đơn Dương nói riêng.
 
Một trong những điều được dư luận chú ý trong thời gian gần đây là UBND tỉnh Lâm Đồng vừa ra quyết định công nhận nghề làm nhẫn bạc là nghề truyền thống của người Churu ở Đơn Dương. Trong một lần trao đổi với ông Lê Hữu Túc, Phó Chủ tịch UBND huyện Đơn Dương, chúng tôi được nghe ông bộc bạch: “Đơn Dương thực sự có tiềm năng về du lịch văn hóa dân tộc bản địa nhưng bởi nhiều lý do, trong nhiều năm qua, du lịch chưa thực sự là thế mạnh của địa phương. Song điều đó không có nghĩa là đã quá muộn để lãnh đạo huyện Đơn Dương đề ra một chiến lược lâu dài để phát huy yếu tố văn hóa dân tộc thiểu số vào phát triển du lịch. Ví dụ, với Đơn Dương, thế mạnh về nghề truyền thống làm nhẫn bạc là thế mạnh xem ra là độc nhất vô nhị ở Lâm Đồng”. Chúng tôi muốn nói thêm: Nghề này không chỉ là độc nhất vô nhị ở Lâm Đồng mà còn là “nghề của một người”. Là nghề của một người, tất nhiên cũng có điều kém vui, nhưng nhìn dưới một góc độ khác, nếu Đơn Dương biết phát huy thế mạnh “nghề duy nhất - nghệ nhân duy nhất” một cách đúng mức thì đây chính là “đặc sản” có một không hai của huyện Đơn Dương. Lần gặp Ya Tuất - nghệ nhân duy nhất “hành nghề” nhẫn bạc ở huyện Đơn Dương - gần đây nhất, tôi cảm thấy vui lây khi nghe anh thật thà bảo rằng: “Có một mình mình làm cái nghề này thôi nên hễ huyện có lễ hội gì hay có đoàn nào đó đến thăm và tham quan cái nghề nhẫn bạc thì chỉ một mình mình mang đồ nghề ra mà làm. Bởi vậy nên bây giờ, Ya Tuất mình luôn luôn bận rộn!”.
 
Trong một chuyến công tác gần đây nhất về làng gốm Krăng Gõ, huyện Đơn Dương, chúng tôi đã nghe chị Ma Phương (44 tuổi) - con gái nghệ nhân làm gốm Ma Wơng (75 tuổi), tâm sự: “Làng gốm Krăng Gõ của người Churu mình giờ đây nổi tiếng lắm rồi. Hồi em ra Hà Nội theo Sở VH-TT-DL Lâm Đồng để trưng bày và trình diễn nghề làm gốm của người Churu Lâm Đồng, mấy chú, mấy anh cán bộ ở trung ương bảo rằng thích lắm cái nghề này. Giới trẻ ở thủ đô Hà Nội cũng rất thích. Họ bảo rằng cái tiếng của làng gốm Churu ở huyện Đơn Dương bay ra tận ngoài Hà Nội. Có người còn bảo họ muốn vô Lâm Đồng rồi đến làng gốm Krăng Gõ để xem bà con Churu làm cái gốm ra sao nhưng chưa có dịp”. Bà Ma Wơng, mẹ của chị Ma Phương, thật thà: “Con gái làng này biết ngồi bên cái bàn gốm từ lúc… mới lọt lòng mà! Cái nghề gốm của người Churu mình không giống như nghề gốm ở các nơi đâu. Nghề gốm ở các nơi thì có cái bàn xoay tròn. Còn người Churu mình thì phải tự xoay bằng hai bàn tay; tức là phải đi vòng vòng bên cái bàn làm thành cái “vòng xoay” nên rất cần sự khéo léo của đôi tay, sự nhịp nhàng của đôi chân, sự mềm dẻo của cái bụng, cái lưng…”. Nghề gốm ở Đơn Dương của tộc người Churu độc đáo là vậy, “lạ” là vậy… và “đặc sản” cũng chính nhờ vậy!
 
Cách nay chưa lâu lắm, chúng tôi đã có dịp “khám phá” ngôi nhà sàn khá nổi tiếng trong cộng đồng người Churu ở Đơn Dương là ngôi nhà sàn của chị Roda Nai Linh (56 tuổi) ở thôn Mlọn, thị trấn Drann. Đó là ngôi nhà sàn không lớn lắm nhưng độc đáo là ở chỗ nó được làm từ hơn 60 năm trước nhưng đến nay không hề cũ, không hề bị mối mọt theo thời gian. Giá trị của ngôi nhà sàn này còn ở chỗ là được làm đúng theo mẫu nhà sàn của người Churu, nguyên vật liệu cũng được chọn đúng theo “chuẩn” để làm nhà mà ông bà người Churu xưa truyền lại. “Ngôi nhà này do bố tôi thiết kế và tự chỉ huy những thợ làm nhà người Churu trong làng cùng làm. Hồi đó, tôi chưa sinh ra đời. Nhưng khi sinh ra, lúc còn nhỏ tôi thấy cái nhà như thế nào thì nay nó hầu như còn nguyên như vậy”. Trước khi mất, bố của chị Roda Nai Linh đã “di chúc” lại ngôi nhà sàn độc đáo này cho chị với không ít lời căn dặn về việc giữ gìn truyền thống văn hóa của người Churu. Xin được nói thêm, bố của chị Roda Nai Linh là một trí thức người dân tộc thiểu số có lối ứng xử rất mực thước, đặc biệt là sự ứng xử với những gì thuộc về văn hóa cổ truyền của tộc người Churu. Bởi vậy, theo lời kể của chị Roda Nai Linh thì “tâm tư” lớn nhất của ông trước khi qua đời vẫn là làm thế nào để gìn giữ những giá trị văn hóa mà phải trải qua hàng trăm thế hệ, người Churu mới hình thành được cái vốn ấy và nó được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Bây giờ, không chỉ lưu giữ cái khung của ngôi nhà mà bên trong ngôi nhà sàn ấy, kế thừa sự cẩn trọng của người cha, dưới bàn tay khéo léo của mình, chị Roda Nai Linh biến nội thất ngôi nhà thành “bảo tàng sống” của những giá trị văn hóa đặc trưng của người Churu. Bởi vậy, ngôi nhà sàn độc đáo của chị trong thời gian gần đây đã vô tình trở thành một điểm tham quan của nhiều du khách không chỉ trong nước mà còn cả du khách nước ngoài, mặc dầu chưa một lần ngôi nhà được chủ nhân quảng cáo là điểm tham quan du lịch. 
 
Đơn Dương là địa phương có đặc điểm dân cư - dân tộc làm nên yếu tố văn hóa tộc người bản địa mà ít có địa phương nào có được. Có thể phân tích: Các tộc người thiểu số bản địa Lâm Đồng thuộc hai ngữ hệ Môn Khơme và Mã Lai Đa Đảo là chính. Trong đó, các tộc người thuộc nhóm Môn Khơme (Cơho, Mạ…) có địa bàn cư trú khá rộng - trải dài từ cao nguyên Lâm Viên (Đà Lạt) xuống đến tận vùng Đồng Nai (Cát Tiên). Trong khi đó, nhóm Mã Lai Đa Đảo (Churu, Raglai…) xem ra lại “co cụm” ở vùng Đơn Dương và chỉ kéo sang một phần đất của huyện lân cận là Đức Trọng. Điều đáng nói nữa, tộc người thiểu số bản địa Churu ở Đơn Dương có các yếu tố văn hóa tộc người rất đặc trưng mà không phải bất kỳ huyện nào trong tỉnh Lâm Đồng cũng “sở hữu” được (như vừa nêu ở trên). Trong khi đó, các yếu tố về văn hóa các tộc người thiểu số bản địa thuộc “sở hữu” của những vùng đất khác (như người Lạch của Lạc Dương, người Cơho của Di Linh, người Mạ của Bảo Lộc…) thì ngay tại Đơn Dương vẫn hiện hữu: Trong lịch sử, những người “chiếm đất” (một trong những nghĩa của từ “Churu”) có cùng không gian cư trú với các dân tộc thuộc ngữ hệ Môn Khơme nên không chỉ tiếp nhận dòng văn hóa bên ngoài theo quy luật tự nhiên mà người Churu (và cả người Raglai) còn chấp nhận ngay trong không gian sinh tồn của dân tộc mình một dòng văn hóa ngoài Churu. Và như vậy, “dòng văn hóa ngoài Churu” này cũng là một thế mạnh khác để Đơn Dương khai thác trong phát triển du lịch!
 
Trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 có đặt vấn đề: Phát triển du lịch bền vững gắn với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội; đảm bảo hài hòa tương tác giữa khai thác phát triển du lịch với bảo vệ giá trị tài nguyên tự nhiên và nhân văn. Trong mục tiêu chung của quyết định phê duyệt kế hoạch triển khai chiến lược phát triển du lịch trên địa bàn Lâm Đồng đến 2020 và tầm nhìn đến 2030 cũng nêu rõ: “Khai thác có hiệu quả lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, truyền thống, các giá trị văn hóa - lịch sử để phát triển ngành du lịch tỉnh Lâm Đồng theo hướng chất lượng cao và bền vững, nhanh chóng đưa du lịch trở thành ngành kinh tế động lực của tỉnh, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển”. Như vậy, cách đặt vấn đề khi đề cập đến mục đích phát triển du lịch huyện Đơn Dương như phần đầu đã đề cập là hoàn toàn hợp lý. Và thêm nữa, nếu Đơn Dương đặt trọng hơn nữa yếu tố văn hóa các tộc người bản địa bên cạnh du lịch sinh thái (như chiến lược đã đề ra) thì kết quả khai thác du lịch trên địa bàn huyện mang lại sẽ cao hơn nhờ ở những yếu tố “độc” và “lạ” như trên vừa phân tích.
 
 
KHẮC DŨNG
 

Đêm hội cầu duyên thu hút hàng ngàn người tham dự

(LĐ online) Đêm hội “Ước nguyện cầu duyên” diễn ra đêm 13/2, dưới chân thác Pongour không chỉ có 300 cặp tình nhân như dự kiến mà thu hút hàng ngàn du khách tới tham dự. Ngoài màn biểu diễn nghệ thuật của đoàn nghệ sĩ đến từ thành phố Hồ Chí Minh, chương trình còn có những nội dung cầu chúc cho lễ tình nhân đầy cuốn hút. 
 
Ba dòng nước được dẫn về từ thác Pongour vào ba bình hoa hồng được đặt sẵn, những cô gái xinh đẹp mang trang phục dân tộc Thái lần lượt giúp các cặp tình nhân lấy nước vào những chiếc bình nhỏ. Các bạn trẻ hái phong bao lì xì trên cây tình duyên trao nhau và cùng ước nguyện. Trên nền nhạc của những ca khúc bất hủ về tình yêu, các cặp tình nhân như trân trọng hơn khoảnh khắc thiêng liêng của ngày Tình yêu. Cầm ngọn đèn hoa đăng trong tay, mắt hướng lên trời ngắm nhìn màn pháo hoa rực rỡ, những cặp tình nhân tay trong tay cầu nguyện duyên thành. 
 
Một nhóm bạn trẻ tới từ xã Phú Sơn huyện Lâm Hà đi hơn 30km vào tham dự đêm hội chia sẻ: Chương trình này được tổ chức rất hoành tráng và hấp dẫn nhất là những màn biểu diễn ngay trên thác nước. 
 
Không khí đêm hội rất sôi động nhưng cũng không kém phần linh thiêng.

Xin nước thiêng